Ông Tân, nông dân ở thôn Qiong Da, xã Bản Shi, huyện Qiong Zhen, tỉnh Kiên Giang mô tả quy trình nuôi lươn không bùn, ông cho biết sau khi nghiên cứu các mô hình kinh tế hiệu quả, ông nhận thấy lươn là loại hải sản rất được ưa chuộng. giống loài. Nó được ưa chuộng trên thị trường vì giá trị dinh dưỡng cao.
Ông Tấn từ bỏ nghề nuôi vịt ngoài đồng và ở lại quê nhà, chọn con đường nuôi lươn và bán lươn nhân tạo.
Đây không phải là một hành trình dễ dàng bởi không hề có công nghệ nuôi lươn, kinh nghiệm nuôi lươn cũng như sự nỗ lực, quyết tâm học hỏi và hỗ trợ từ người thân của ông Bành Minh Tâm, một nông dân trong làng. Xã Bản Thạch Công Đa (huyện Giồng Riềng) đạt được thành công bước đầu bằng tâm huyết của mình.
Nói về quy trình nuôi lươn, ông Tân cho biết, sau khi nghiên cứu các mô hình kinh tế hiệu quả, ông nhận thấy lươn có giá trị dinh dưỡng cao và là loài hải sản rất được ưa chuộng trên thị trường.
Tuy nhiên, số lượng cá chình hoang dã ngày càng ít do nhu cầu cao và nghề đánh bắt lươn tự nhiên đang bị tuyệt chủng. Vì vậy, đây sẽ là cơ hội tốt để phát triển nuôi lươn nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm của người tiêu dùng và mang lại lợi ích kinh tế cao.
Đầu năm 2021, anh quyết định lựa chọn mô hình nuôi lươn và bán lươn giống để khởi nghiệp, ban đầu anh sử dụng thức ăn công nghiệp (một hình thức nuôi lươn không bùn) để nuôi lươn. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều tài liệu tham khảo như sách, báo, cẩm nang… về công nghệ nuôi lươn…
Vì vậy, người nuôi lươn chưa có kỹ thuật vững chắc để áp dụng vào thực tế. Thiếu kinh nghiệm, tiếp theo là chất lượng loài kém do thu mua nguồn đánh bắt tự nhiên từ nhiều người, hoặc việc thuần hóa loài lươn tự nhiên không đảm bảo nên sau khi thả nuôi tỷ lệ hao hụt quá cao.
Hơn nữa, do dịch Covid-19 đang thực hiện giãn cách xã hội, lươn được bán nhưng thương lái không mua được nên anh phải bán lại cho người dân xung quanh với giá thấp để thu gom. Hồi hương một phần hoặc toàn bộ vốn. Lô nuôi lươn đầu tiên của ông bị lỗ nặng.
Lươn thịt nuôi không bùn trong ao xi măng của ông Tâm, nông dân ở thôn Giồng Đa, xã Bản Thạch (huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang)
>>>Xem thêm: Công nghệ nuôi lươn không bùn
Kiên trì và đam mê, anh đã chọn lọc được 200 con lươn này để làm giống lươn. Khi đó, anh chưa có kinh nghiệm, kỹ thuật nên dành thời gian nghiên cứu, học hỏi công nghệ nuôi lươn không bùn từ cán bộ khuyến nông xã, Internet, báo chí, các trạm trình diễn nuôi lươn…
Lần này, bước đầu anh đã thành công nhưng hiệu quả không cao. Anh Tân nảy ra ý tưởng tự sản xuất lươn giống để nuôi lươn thương phẩm. Tuy nhiên, do công nghệ chăn nuôi lạc hậu nên tỷ lệ sinh sản của lươn rất thấp.
Thất bại hết lần này đến lần khác, được sự hỗ trợ vốn vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội, vợ chồng anh càng quyết tâm vượt qua khó khăn, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện kỹ thuật canh tác.
Trong quá trình tìm tòi, học hỏi, mô hình nuôi lươn và bán lươn giống của anh bước đầu đã có những dấu hiệu tích cực. Khả năng trứng lươn nở thành ấu trùng khá cao.
Hiện nay, diện tích nuôi lươn của ông là: 48 m2 nuôi lươn bố mẹ và 24 m2 nuôi lươn thương phẩm. Ông Tân cho biết thêm, đến năm 2021, gia đình ông sẽ sản xuất và bán ra thị trường 50.000 con lươn và 600 kg lươn thương phẩm. Mô hình nuôi lươn không bùn của gia đình ông Tân có tổng doanh thu 308 triệu đồng, sau khi trừ chi phí lãi hơn 21.538 đồng.
Anh Tân chia sẻ, muốn nuôi lươn thành công phải áp dụng những kinh nghiệm sau:
Một làNguồn lươn bố mẹ nên được mua từ các trang trại bên ngoài trang trại để tránh cận huyết. Không mua lươn bố mẹ được thu thập từ tự nhiên và tránh mua lươn đã bị điện giật hoặc bắt bằng thuốc.
haiKhi chọn lươn, cha mẹ cần lưu ý, đối với lươn trưởng thành, da bụng lươn cái mỏng hơn, bụng hơi nhô lên do buồng trứng phát triển, lỗ sinh dục hơi phẳng và có màu hồng. Vì vậy, khi mua lươn phải trên 10 tháng tuổi và nặng tối ưu từ 30 gam đến 100 gam.
ngày thứ baKhi vận chuyển lươn, đổ lươn vào chậu hoặc chậu lớn để khoảng 1-2 giờ trước khi vào bể, sau đó ngâm trong nước muối 5% hoặc thuốc tím 1-2g/m3 trong 30 phút để loại bỏ nấm mốc và nấm mốc. Tiếp tục ngâm vitamin C 5 – 10g/m3 trước khi cho vào bể nước. Mật độ thả giống 8-10 con/m2, không nên thả quá dày đặc vì khi lươn đẻ trứng và xáo trộn tổ, đất trong ao sẽ bị xẹp xuống.
Bốn là1. Cho lươn vào khay ăn và đặt vào vị trí cố định trong bể cá. Sau khi cho lươn ăn khoảng 2 giờ, kiểm tra lượng thức ăn trong khay cho ăn, nếu còn dư hãy loại bỏ để tránh ô nhiễm nguồn nước. Tùy theo mức độ ô nhiễm của nước trong bể nước mà có thể thay định kỳ 1 tuần 1 lần. Tùy thuộc vào chất lượng lươn bố mẹ khi thả giống, lươn sẽ bắt đầu sinh sản sau 1-2 tháng nuôi.
Theo ông Tân, mật độ ấp trứng lươn là 3.000-3.500 trứng/m2.
>>> Xem thêm: Công nghệ nuôi lươn hiệu quả
Khoảng 10-15 ngày sau khi thả lươn bố mẹ vào bể, lươn sẽ bắt đầu đẻ trứng, khi thấy tổ bong bóng xuất hiện ở miệng hố hoặc trên mặt nước thì tổ bong bóng sẽ lớn dần trong bể. . Vào ban đêm, lươn sẽ đẻ vào sáng hôm sau. Bạn cần chú ý phát hiện những bong bóng này càng sớm càng tốt và thu thập trứng lươn theo màu sắc của bong bóng: khi kiểm tra tổ có bọt trắng – lươn bố mẹ vừa xây tổ, còn trứng mới đẻ là màu vàng. , không nên thu thập.
Tốt nhất nên thu tổ bọt có màu vàng sẫm đến nâu hoặc trắng đục, đây là giai đoạn trứng đã phát triển thành phôi, một số đã nở.
Dùng muôi vớt hết bọt rồi cho vào tô, trứng bạn vớt thường có bùn và chất bẩn nên rửa nhẹ nhàng bằng nước sạch nhiều lần.
Nước nuôi được làm sạch, khử trùng và lọc trong 2 ngày trước khi đưa vào bể ấp. Dùng khay nhựa chứa đầy nước sạch và sục khí nhẹ để cung cấp đủ oxy cho trứng, lươn phát triển.
Nhiệt độ nước ủ thích hợp nhất là 28-30oC. Thay nước 2-3 lần một ngày. Thường xuyên theo dõi và loại bỏ trứng thối ra khỏi khay ấp để tránh làm ô nhiễm nguồn nước trong khay ấp. Trứng bắt đầu nở sau 5 ngày và nở hoàn toàn sau 2-3 ngày, trong thời gian này phải duy trì thông gió liên tục. Lươn nở sau 4-5 ngày thì được chuyển về ao ương.
Ao nuôi lươn và lươn bố mẹ tại khu nuôi lươn tại nhà ông Tân, nông dân ở thôn Qiong Da, xã Bản Shi, huyện Qiong Cang, tỉnh Kiên Giang.
>>> Xem thêm: Tìm hiểu kỹ thuật nuôi lươn thương phẩm trong bể bạt
Khi lươn có sắc tố màu nâu sẫm, chúng có thể bắt mồi ở bên ngoài, cung cấp thêm lớp lót bằng dây nylon vụn, tạo nơi trú ẩn cho lươn, đồng thời cung cấp thông gió liên tục để tăng lượng oxy cho lươn.
Thức ăn chính của lươn bột là trứng nước hoặc bọ xít chiếm 5% trọng lượng cơ thể, cho ăn 4 lần/ngày, thay nước trước khi cho lươn ăn.
Sau 30 ngày lươn có thể ăn giun đất cắt nhỏ, lúc này cần bổ sung vitamin C và men tiêu hóa để tăng sức đề kháng cho lươn non. Một giờ sau khi cho lươn ăn, kiểm tra lượng thức ăn còn lại trong lớp cho ăn và điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp.
Mỗi tuần một lần, nên tạm dừng cho ăn trong 1 ngày và sau đó tăng lượng thức ăn lên: nhiều hơn 15-25% so với lượng thức ăn trước đó.
Khi lươn được 1 tháng tuổi, việc đo kích thước được thực hiện 2 tuần một lần để tăng tỷ lệ sống sót và hạn chế sự phân mảnh và cạnh tranh con mồi. Sau thời gian ương khoảng 60-75 ngày, lươn đạt cỡ 500-600 con/kg, lúc này lươn được cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp.
Mô hình nuôi lươn và nuôi lươn của ông Tân là một trong những bước đột phá. Dù gặp nhiều khó khăn nhưng anh Tân vẫn kiên trì học hỏi, tích lũy kinh nghiệm để có được như ngày hôm nay.
Khi người dân có nhu cầu nuôi lươn để tăng thu nhập, anh sẵn sàng hỗ trợ kỹ thuật nuôi lươn, góp phần xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Theo Dân Việt