Sau đây là kỹ thuật nuôi cá tra, basa bè, mời các bạn tham khảo để áp dụng đúng vào việc nuôi cá hiện nay.
Vùng ĐBSCL do có điều kiện thuận lợi, khí hậu ấm áp quanh năm nên có thể thả cá quanh năm. Chỉ còn việc chủ bè thu hoạch và bán hết cá để nuôi vụ sau. Tuy nhiên, chủ yếu có 2 loại cây nuôi trên bè: Gần đây, giống cá tra không đủ đáp ứng người nuôi, giá quá cao nên một số chủ bè đã kéo dài thời gian thả nuôi thêm 6-9 tháng. nên Cá thu hoạch cũng có kích thước lớn hơn (lên tới 1,8-2,2 kg/con).
Trong quá trình nuôi, tất cả cá chỉ được thu hoạch một lần. Bởi kinh nghiệm cho thấy, nếu thu hoạch một phần (thu gom, tỉa bớt) thì số cá còn lại dễ bị giật mình và thường bỏ ăn, dẫn đến tổn thất lớn. Khi thu hoạch, các chủ bè có thể hy vọng sẽ bán được giá cao hơn để có lãi nhiều hơn.
Nguyên liệu làm thức ăn cho cá tương đối phong phú và dễ kiếm ở các tỉnh ĐBSCL. Trong số này có thể kể đến: cám gạo, cám gạo lứt, tinh bột bắp, đậu nành, khô dầu, bột cá, cá tạp, rau xanh, cùi dừa, v.v. 3 thành phần chính là cám gạo, nội tạng cá và rau xanh được sử dụng phổ biến nhất để làm thức ăn cho cá bè hiện nay.
Dựa vào đặc điểm là loại thức ăn ăn tạp, dễ chuyển hóa mà vẫn tăng trọng nhanh, người nuôi có thể phối trộn một số nguyên liệu trên, tán nhuyễn, trộn đều rồi nấu cho cá ăn. Nói chung, giá trị dinh dưỡng của thức ăn không cao lắm, ít protein và nhiều carbohydrate và chất xơ. Nhưng chú ý đảm bảo hàm lượng đạm 20-28% trong 2-3 tháng đầu để cá có đủ thể lực tăng trưởng nhanh trong thời gian tiếp theo. Giai đoạn sau đến khi thu hoạch, hàm lượng đạm trong thức ăn chỉ khoảng 15-18%, chủ yếu vẫn là đường (40-45%), còn lại là chất béo (8-11%), chất xơ (14-11%). 20%) và Tro (16-22%) (9). Để đạt được giá trị dinh dưỡng như trên, các nguyên liệu được phối trộn như sau:
Yếu tố |
cá tra |
cá da trơn |
ghi chú |
cá linh tinh |
23 – 27% |
15 – 20% |
|
cám gạo |
55 – 60% |
45 – 55% |
|
đĩa |
12 – 15% |
||
rau xanh |
25 – 30% |
40 – 45% |
|
Các thành phần khác |
5 – 10% |
Xúc xích cua, ốc, gà |
Hiện vùng nuôi cá bè tập trung ở các tỉnh ĐBSCL, 99% thức ăn là thức ăn gia công hỗn hợp, chỉ khoảng 1% là thức ăn công nghiệp (thức ăn viên). Sự tiện lợi của thức ăn hỗn hợp là nó có sẵn tại địa phương và ngư dân có thể chuẩn bị trên bè. Tuy nhiên, những loại thức ăn này thường có giá trị dinh dưỡng thấp, thành phần dinh dưỡng không ổn định, mất nhiều thời gian chế biến và cho ăn. Vì vậy, thời gian nuôi thường dài, trong cơ thể cá tích tụ một lượng lớn mỡ. Để khắc phục tình trạng nêu trên cần có thành phần nguyên liệu hợp lý, tăng thành phần nguyên liệu chứa nhiều đạm. Các biện pháp thay thế dần thức ăn chế biến hỗn hợp bằng thức ăn công nghiệp cũng cần được khuyến khích, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ môi trường nước, giảm ô nhiễm và có lợi cho việc sử dụng hợp lý nguồn cá tạp.
Các nguyên liệu được nghiền nhỏ, trộn với cám và nấu chín (trừ rau xanh), sau đó trộn với các loại rau củ, có thể cho thêm 1% bột lá bông vải để tăng độ dính của thức ăn.
Thức ăn sau khi được ép thành sợi hoặc hạt được đem phơi nắng để loại bỏ chất chát, nếu không cắt bằng máy thì dùng tay cán nhỏ hạt cho cá ăn. Cho ăn nhân tạo tốn nhiều thời gian và công sức. Cho ăn cắt bằng máy rút ngắn thời gian cho ăn và giảm đáng kể cường độ lao động và nhân lực. Cá ba sa, ngày cho ăn 2-3 lần, cá có đặc tính ít cạnh tranh, ăn no sẽ chui xuống đáy bè. Đối với cá da trơn, thông thường cho ăn 1-2 lần/ngày. Cá da trơn rất tham ăn và hung dữ nên những con cá lớn thường thắng những con nhỏ hơn. Cá ăn no thì bỏ đi, cá ăn chưa no còn lại ăn tiếp. Vì vậy, cá tra thường được nuôi lâu hơn cá tra. Khẩu phần ăn tùy thuộc vào thể lực của cá, thường là 3-5% trọng lượng cá mỗi ngày. Thức ăn cho cá tra chế biến (như mô tả ở trên) có FEC trung bình từ 3-3,2. Thấp hơn Basha, trung bình 3-4.
Khi cho cá ăn cần chú ý những điểm sau:
– Nên cho ăn vào lúc thủy triều lên hoặc thủy triều xuống để kích thích cá bắt mồi, cá ăn khi nước sông chảy mạnh để đảm bảo đủ oxy và cá không bị mệt.
– Cho ăn chậm hoặc chia nhỏ để tất cả đều ăn hết.
– Quan sát hoạt động đánh bắt của cá, theo dõi quá trình sinh trưởng, tiêu tốn thức ăn của cá để kịp thời điều chỉnh nhu cầu của cá.
– Theo dõi tình trạng sức khoẻ của cá, khi phát hiện có bệnh phải giảm hoặc ngừng cho ăn và tìm biện pháp điều trị bệnh.
– Thức ăn đã chế biến bảo quản trong thời gian ngắn hoặc cho ăn sau khi bị ôi thiu dễ gây bệnh cho cá.
Đây là công đoạn đòi hỏi nhiều sự chú ý và kinh nghiệm của người nông dân để đảm bảo vụ nuôi thắng lợi.
– Trước khi thả cá, thân bè phải được vệ sinh và sát trùng thật kỹ, chú ý mọi ngóc ngách của thân bè, những nơi này là nơi ẩn nấp của vi khuẩn có hại và là nguồn gây bệnh cho cá. Kiểm tra, thay thế ngay các bộ phận hư hỏng, hỏng hóc, sửa chữa dây neo, neo, phao và thay thế các bộ phận hư hỏng, hỏng hóc.
– Trong mùa khô (tháng 11-4), theo quy luật thủy triều, dòng nước chảy yếu hoặc chậm 2 lần/ngày (thời gian thay nước giữa 2 thủy vực) nên cá dễ bị thiếu oxy. Ngay lập tức, khối nước cần được quạt mạnh qua bè bằng máy đuôi tôm đặt trên nóc bè để tăng hàm lượng oxy hòa tan trong nước.
– Trong mùa mưa, nước sông mang theo một lượng lớn phù sa lắng đọng dưới đáy bè, cần thường xuyên theo dõi và thổi bớt phù sa trong bè kịp thời bằng máy bơm hoặc quạt gió (3- 5 ngày/lần). Chân vịt của máy đuôi tôm phải có vòng an toàn, để khi va phải cá hoặc rơi ra không làm hỏng bè.
– Kiểm tra neo, dây neo thường xuyên, nhất là trong mùa lũ, nếu cần thiết phải tăng cường thêm dây neo. Phải có kế hoạch dự phòng trong trường hợp nước lũ trở nên nghiêm trọng đến mức phải di chuyển bè. Kiểm tra xung quanh bè trong một chuyến lặn hàng tuần để kiểm tra xem lưới thép có bị lão hóa hoặc hư hỏng không, những lưới này phải được sửa chữa ngay lập tức. Dọn và nhặt sạch rác, cây cối bám trên bè… giảm lưu lượng qua bè.
Sau 10-12 tháng nuôi, cá có thể đạt trọng lượng 1-1,3 kg (cá tra) và 1,3-1,5 kg/con (cá tra). Một số bè nuôi cá tra trong thời gian 6-9 tháng, cỡ cá có thể đạt 1,8-2,2 kg/con. Đôi khi việc thu hoạch cá phụ thuộc vào thời điểm, giá cả và lợi nhuận được tính toán, hoặc vào người mua (công ty chế biến xuất khẩu).
Năng suất nuôi hiện nay khoảng 120 kg/m3 bè nuôi, sản lượng trung bình 50-160 tấn/bè, tùy theo kích thước bè. Điều này khẳng định nuôi cá tra, basa mật độ cao trong bè lớn vẫn có thể đạt hiệu quả tốt. Trước khi thu hoạch 2-3 ngày phải giảm lượng thức ăn và ngừng hẳn vào ngày cuối cùng. Khi thu cá dùng lưới bắt từ từ, đến ngày cuối thì dừng hẳn. Khi thu cá dùng lưới bắt dần xuống đáy.
Nên thu gom trong thời gian ngắn để tránh hao hụt, thất thoát. Hiện nay, khoảng 70% sản lượng cá tra và 30% sản lượng cá tra nuôi bè ở An Giang và Đồng Tháp được thu mua, chế biến và xuất khẩu mỗi năm. Số còn lại được lưu thông tiêu thụ trong và ngoài tỉnh.