Chủ trại nuôi lợn rừng lai “cắp nách” hưởng thu nhập 300 triệu đồng mỗi năm
Ông Pan Wenqiong, chủ trại nuôi lợn rừng lai “cắp nách” tại xã Hà Xin, Hà Trung (Thanh Hóa) đạt thu nhập hàng năm lên đến 300 triệu đồng, sau khi trừ chi phí vẫn còn lãi hơn 200 triệu đồng. Điều này thực sự đáng ngạc nhiên, bạn có đồng ý không? Ông ta vui vẻ chia sẻ: Mình đã tìm hiểu kỹ thị trường và nhận thấy nhu cầu lớn hơn cung cấp, đặc biệt heo rừng là một món ăn được người tiêu dùng ưa chuộng. Thịt heo rừng thơm ngon, chủ yếu là nạc dăm và chất béo, da dày (đã nấu chín). Vì thế, tôi đã quyết định đầu tư nuôi lợn rừng lai “cắp nách” (heo nhẹ, dễ bán).
Nuôi lợn rừng lai từ giống lợn đực và lợn nái
Lợn đực giống và lợn nái (còn gọi là heo nái) là con lạ mà ông Quỳnh đã mua ban đầu từ một doanh nghiệp uy tín ở Xuân Mai, Hà Nội. Ông đã phát triển đàn lợn từ đó đến nay.
Lợn rừng trong trang trại của ông Pan Wenqiong “cắp nách”
Bán 140 con lợn rừng “cắp nách” mỗi năm
Mỗi năm, gia đình ông Quỳnh bán khoảng 140 con lợn rừng “cắp nách” trên thị trường. Trọng lượng trung bình mỗi con là 25kg (con nặng nhất khoảng 30-35kg). Mức giá ổn định là 120.000 đồng/kg (giá thị trường hiện tại từ 140.000đ/kg trở lên). Điều quan trọng là lợn phải đảm bảo sạch, an toàn thực phẩm và có giấy chứng nhận nguồn gốc đối với giống lợn rừng lai. Do đó, khi có khách hàng quan tâm, ông ta không mất nhiều thời gian để bán con heo rừng “cắp nách” cho họ. Chuồng nuôi lợn luôn trống rỗng vì con heo rừng “cắp nách” đã được đặt mua trước.
Bí quyết nuôi lợn rừng lai “cắp nách”
Ở vùng núi thôn Tân Sơn, xã Hà Tân, ông Quỳnh đã thuê 1 ha đất để xây dựng trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm. Diện tích cho trại nuôi lợn là 300 mét vuông. Ông đã sử dụng vật liệu đơn giản như gạch không nung cho tường, nền bê tông láng mịn, độ cao phù hợp và mái che không chỉ để che nắng, mưa mà còn để lấy gió và ánh sáng, giữ trại luôn mát mẻ.
Ông Quỳnh đã đi học nhiều nơi, nghiên cứu và áp dụng một phương pháp nuôi lợn khá bài bản. Lợn nái được cho ăn 2 lần trong ngày với thức ăn là cám gạo, bã bia, bã bánh đã được trộn đều. Mỗi con lợn ăn 3kg. Thời gian cho ăn là vào 8h sáng và 16h chiều.
Lợn con sau khi sinh sẽ bú sữa mẹ khoảng 1,5 tháng. Sau đó, chúng được thả nuôi trên núi trong một không gian rộng để tận dụng môi trường tự nhiên.
Lợn con được cho ăn thức ăn hỗn hợp như lợn nái, với lượng thức ăn là 0,4 kg/con. Khi lợn con đạt trọng lượng khoảng 1,5 kg/con, chúng được chuyển sang ăn thức ăn hỗn hợp gia đình, bao gồm cám gạo, bã bia, xác bã. Mỗi con ăn 2 kg/ngày, và được bổ sung rau xanh như cỏ voi, thân chuối băm nhỏ trộn đều trong thức ăn.
Nguồn nước từ giếng khoan đảm bảo đủ để vệ sinh khu vực chuồng nuôi. Nước được pha loãng với thức ăn để đảm bảo vệ sinh và sạch sẽ.
Để phòng bệnh cho lợn, ông ta phải kiểm tra, vệ sinh chuồng nuôi và các dụng cụ ăn, máng, nước uống thường xuyên trước và sau khi cho lợn ăn. Việc phun rải vôi bột hàng tháng để tiêu độc và khử trùng chuồng trại cũng rất quan trọng. Điều này giúp lợn sinh trưởng khỏe mạnh, chóng lớn và phòng chống dịch bệnh. Đặc biệt, ông ta cho lợn uống viên sắt (vitamin B12) 2-4 ngày sau khi sinh để phòng bệnh phân trắng.
Ở trong ao có diện tích 300m2, ông Quỳnh đã thả các loại cá như chim trắng, cá trê lai, cá chép… Ông tận dụng lá chuối và cám lợn thừa để nuôi cá. Đồng thời, ông cũng trồng lúa để tự cung cấp cho gia đình.
Để đảm bảo cuộc sống gia đình, ông Quỳnh thuê lao động phổ thông làm công việc chăn nuôi với mức lương 5 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, gia đình ông còn nuôi 150 con gà thịt và 50 con gà đẻ để lấy trứng bán, trong đó có một số gia đình sử dụng riêng.
Ngoài việc nuôi lợn rừng lai, gia đình của ông còn trúng thầu 8 ha đất trồng rừng thông nhựa dựa vào lợi thế của khu rừng gần nhà. Số lượng nhựa khai thác hàng năm khoảng 3.000kg, được bán cho Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng công nghệ rừng với giá 14.000 đồng/kg. Ông thuê 2 công nhân thời vụ để khai thác nhựa hàng năm và trả phí hợp đồng là 12.000 đồng/kg.
Ông Quỳnh khiêm tốn nói: “Tôi biết tận dụng thời thế, địa điểm thuận lợi, nhu cầu thị trường, cập nhật thông tin và mạnh dạn đầu tư để mang lại hiệu quả. Chi phí đầu tư hàng năm là 500 triệu đồng nhưng thu lãi hơn 200 triệu đồng. Đó là một thành quả đáng tự hào. Thực sự, nếu không làm việc này, tôi sẽ nghèo cả đời”.
Được chỉnh sửa bởi gcaeco.vn