Hiện nay, hiệu quả của phương pháp điều trị ký sinh trùng ốc chưa thỏa đáng, và ưu tiên phòng ngừa là chính. Người chăn nuôi cần quan tâm đến nguồn giống, chất lượng con giống; quản lý thức ăn, chăm sóc, phát hiện dịch bệnh kịp thời để giảm thiệt hại.
Những năm gần đây, các trường hợp ốc hương chết hàng loạt do trùng lông ký sinh trên mang, chân, ống hút ốc sên diễn ra phổ biến, phần lớn xảy ra ở giai đoạn con non và trưởng thành. Nó là một loài có hình dạng giống nhím biển, nhưng quá nhỏ để có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Đáng lo ngại, hiện tượng này xảy ra phổ biến ở các cơ sở sản xuất ốc hương giống, ao nuôi và lồng nuôi thương phẩm. Ốc bươu lên mặt đáy bể, lồng, sau khi bò ăn hết thì 1 đến 2 ngày sau ốc sẽ chết, nhất là ốc ở giai đoạn ương.
Các nhà nghiên cứu cho biết căn bệnh rất dễ lây lan này là do sâu bướm trên các mẫu ốc sên gây ra, được tìm thấy trong hầu hết các mẫu được phân tích, các nhà nghiên cứu cho biết và đặt tên cho chúng là ớt. Loài này thuộc nhóm động vật nguyên sinh được đặc trưng bởi sự hiện diện của các bào quan giống như lông được gọi là lông mao, có cấu trúc tương tự lông mao nhưng ngắn hơn, nhiều hơn và lượn sóng. Chức năng của lông bơi là giúp cơ thể di chuyển, vận chuyển thức ăn vào miệng và loại bỏ chất thải trong quá trình trao đổi chất và chất bẩn ra khỏi cơ thể. Ngoài ra, chúng tạo ra một lớp nước giàu oxy xung quanh cơ thể. Ở một số loài, các lông bơi liên kết với nhau để tạo thành cuộn, lông và gai nhảy.
Bệnh này xảy ra ở hầu hết các trại giống và lồng nuôi thương phẩm. Đầu tiên, sâu bướm tấn công vòi của ốc sên (cơ quan tiêu hóa) và siphon (cơ quan hô hấp) khiến chúng phình to, gây tổn thương và tạo kẽ hở cho vi khuẩn lợi dụng. Không có thức ăn, khó thở, và chết. Một số triệu chứng đi kèm khi ốc bị bệnh như: ốc có biểu hiện kém ăn, trồi hẳn lên đáy, ít vùi vào đáy; ống hút và lỗ ăn bị sưng, bên trong có nhiều đốm đỏ. ; Ngoài ra, sự tác động của các loại mầm bệnh như vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng phát triển trong môi trường nước ô nhiễm cũng là nguyên nhân chính gây ra cái chết trực tiếp của ốc Oncomelania.
Các phương pháp điều trị hiện tại không hiệu quả, ưu tiên hàng đầu là phòng ngừa. Người chăn nuôi cần quan tâm đến nguồn giống, chất lượng con giống; kích cỡ thả phù hợp (theo khuyến cáo cỡ giống tối thiểu 8.000-10.000 con/kg; mật độ thả thích hợp 500-1.000 con/m2) , không nên bảo quản quá nhỏ nếu không có chế Hạt giống được kiểm dịch.Thuốc Thú Y. Tuyệt đối không nên sử dụng giống tự nhiên để vận chuyển xa và làm giống, vì giống không tốt cho sức khỏe, dễ bị nhiễm bệnh và chết do vận chuyển, lây truyền và truyền bệnh.
Thức ăn sử dụng là tôm, cá các loại phải tươi, không có mùi ôi thiu, không dập nát, sạch sẽ. Không có chất bảo quản hóa học. Không có mầm bệnh ốc. Sau mỗi lần cho ăn, kiểm tra vệ sinh lưới lồng, đáy lồng. Vào cuối mỗi giai đoạn đào tạo, nền tảng cơ bản phải được thiết lập triệt để. Trong quá trình nuôi thường xuyên sử dụng vôi bột với liều lượng 10-30 ppm. Ngoài ra, nên bổ sung thường xuyên một số loại vitamin C, B1… vào thức ăn giúp ốc mau lớn, kháng bệnh tốt.
Người nuôi cần chủ động kiểm tra, theo dõi pH, độ mặn, oxy hòa tan và các yếu tố môi trường khác để có biện pháp xử lý phù hợp, kịp thời nhằm tạo môi trường tốt cho ốc Oncomelania phát triển, đặc biệt lưu ý đến yếu tố nhiệt độ và độ mặn.
Khi phát hiện ốc có biểu hiện chán ăn và chết, bà con cần loại bỏ ngay. Có biện pháp tiêu hủy hợp lý và không xả rác gần khu vực chăn nuôi làm ảnh hưởng đến chất lượng nước khu vực chăn nuôi.
Khi môi trường thay đổi, các chỉ tiêu lý hóa của nguồn nước có biến động hoặc xáo trộn thì cần di chuyển lồng nuôi đến khu vực an toàn. Khi phát hiện ốc chết, bà con chủ động thông báo cho cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản địa phương để có biện pháp xử lý kịp thời.
Ngoài ra, còn có thể nuôi ghép với các đối tượng khác, không chỉ tận dụng diện tích mặt nước mà còn xử lý, cải tạo môi trường nước ao nuôi. Các vật phẩm có thể nuôi cùng với ốc hương bao gồm cá, rong biển, rong nho, trùn quế, hải sâm…