Cá diếc hay còn gọi là cá diếc, là loài cá nước ngọt có nhiều ở vùng đồng bằng Nam Bộ. Tuy nhiên, để cá nuôi đạt năng suất cao, bà con cần tuân thủ các quy trình kỹ thuật sau.
Diện tích ao nuôi trên 200m2, độ sâu nước từ 1000m2, vị trí ao nuôi phải gần nguồn nước, thuận tiện cho việc cấp thoát nước.
Cải tạo ao: Giai đoạn cải tạo ao diễn ra như sau:
– Đập ao nạo vét bùn đáy ao, chỉ để lại một lớp bùn dày không quá 30 cm.
– Dùng thuốc cá vụn để diệt cá linh tinh và cá xấu, dùng 0,5-1 kg thuốc cá gốc cho 100 mét khối nước.
——Rải đều vôi bột xuống ao, bờ với lượng 8-10kg/100m2 để diệt cá tạp và mầm bệnh còn sót lại. Ở vùng nhiễm phèn, lượng vôi sử dụng cao hơn khoảng 50%. Sau khi bón vôi phải cào đáy bể để vôi trộn đều với bùn trên mặt bể.
– Bón phân chuồng làm mồi tự nhiên cho cá với liều lượng 10-20 kg/100 m2 ao. Hoặc bón urê 0,5kg/100m2, lân 0,3kg/100m2 hoặc phân đạm, lân, kali 2kg/100m2.
– Phơi đáy ao 2-3 ngày. Đối với ao nuôi vùng nhiễm phèn không nên phơi đáy.
– Cấp nước vào ao đến mực nước 0,5 – 0,6m thì thả cá giống. Sau đó tiếp tục cấp nước vào ao đến 1-1,2m. Nguồn nước cấp vào phải được lọc qua túi lọc để loại bỏ cặn bẩn và cá tạp hoặc động vật ăn thịt.
– Chọn những loài cá khỏe, bơi lội nhanh nhẹn, không xây xát. Trước khi thả cá xuống ao ngâm cá trong nước muối 2-3% trong 10-15 phút.
– Mật độ thả: trung bình 5-10 con/m², cỡ cá 6-8 cm. Phải thả cá giống khi thời tiết mát mẻ.
– Có thể thả trong ao nuôi một vài loài khác như cá tráp trắng, cá tai tượng, cá trắm hay cá chuồn, tối đa 50% tổng đàn cá trong ao, không thả cá cạnh tranh thức ăn. Ăn kèm các loại cá bớp như cá rô phi, cá tra.
Cho cá ăn ngày 2-3 lần theo công thức sau:
– Hai tuần đầu: 100 g thức ăn cho 1000 con cá, trong đó 50 g cám trộn với 50 g bột cá chín.
– Từ 3 tuần tuổi cho ăn 50% thức ăn chế biến (cám + bột cá) và 50% thức ăn tươi (cá tạp, tôm, tép…). Chú ý thức ăn phải tươi, không ôi thiu, được băm nhỏ, rửa sạch trước khi cho ăn; nguyên liệu chế biến thức ăn không bị ẩm mốc, còn hạn sử dụng.
Ngoài ra, người nuôi sử dụng thức ăn cỡ nhỏ, vừa miệng cá, thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm 25-30% để cho cá ăn, tỷ lệ thức ăn viên công nghiệp khi cho cá ăn khoảng 30%.
Kiểm tra thức ăn sau khi cá đã ăn và điều chỉnh kịp thời. Lưới lọc phải được làm sạch trước khi cho cá ăn.
Chú ý kiểm tra bờ ao hàng ngày, phát hiện sửa chữa bờ ao, giăng lưới, lấp hố kịp thời không để nước mưa tràn qua bờ ao.
Ao được thay 1 lần/tuần, mỗi lần thay 30-50% lượng nước.
Khi nước ao có màu xanh quá đậm, nâu sẫm hoặc có mùi khó chịu cần thay nước.
Do thả nuôi quá nhiều, nước ao bị ô nhiễm hoặc do các tác nhân cơ giới, cá bị trầy xước nên thân cá thường bị nhiễm bệnh.
Trong nuôi cá bớp thường xảy ra nhiễm vi khuẩn hoặc ký sinh trùng một số bệnh: nhiễm trùng huyết do Pseudomonas, Aeromonas, Edwardsiella. Bệnh do ký sinh trùng: luân trùng (Trichodina), bầu bí (Ichthiophthyrius), các loài giáp xác ký sinh như giun mỏ neo (Lernea) và rận cá (Argulus), 16 loài giun móc (Dactylogyrus), 18 loài giun móc (Gyrodactylus) hoặc nhiễm giun tròn (Philometra).
Để phòng bệnh cho cá cần đảm bảo thức ăn cho cá đủ chất, thức ăn hợp vệ sinh, môi trường nước ao nuôi sạch và được cung cấp ôxy.
Khi cá bị bệnh cần thay nước trong ao và tắm cho cá bằng thuốc tím (KMnO4) nồng độ 3-5‰ trong thời gian 20-25 phút.
Cá lớn khá nhanh, sau 10-12 tháng nuôi có thể đạt trọng lượng 700-800 gam. Khi được giá cao có thể đánh bắt đồng loạt hoặc cá lớn có thể tỉa bớt nuôi lại cá nhỏ không đạt quy cách.